Trong báo cáo tham luận gửi Diễn đàn phát triển bền vững đô thị Việt Nam được tổ chức mới đây, TS. Phan Thanh Hải – Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Huế nhấn mạnh rằng, nhiều đô thị trên thế giới phải tìm điểm cân bằng giữa phát triển hiện đại và giữ gìn di sản. Theo ông Hải, khái niệm “đô thị di sản” mà UNESCO và ICOMOS đề cao bao hàm cả ký ức, cảnh quan, kiến trúc và đời sống cộng đồng. Huế là trường hợp nổi bật nhờ chiều sâu lịch sử, cảnh quan đặc thù và mật độ di sản hiếm có.
Huế được UNESCO công nhận Quần thể Di tích Cố đô Huế năm 1993 và Nhã nhạc cung đình năm 2003. Nhiều thế kỷ trước, Huế là thủ phủ Đàng Trong và kinh đô triều Tây Sơn – Nguyễn, tạo nền tảng cho hệ thống di sản vật thể phong phú gồm Kinh thành, Hoàng thành, lăng tẩm, đàn tế, phủ đệ, chùa chiền và nhà vườn. Những giá trị này kết hợp yếu tố phong thủy – nghệ thuật – quân sự tạo nên diện mạo đặc biệt của một kinh đô phương Đông còn bảo tồn tương đối nguyên vẹn.

Song song, di sản phi vật thể của Huế cũng nổi bật với hệ thống lễ hội khoảng 520 lễ hội lớn nhỏ, nhiều thực hành tín ngưỡng và kho tàng ẩm thực hơn 1.300 món ăn…
Cảnh quan tự nhiên là một thành tố quan trọng tạo bản sắc đô thị Huế. Sông Hương, núi Ngự Bình, dãy Kim Phụng – Bạch Mã và hệ thống thủy hệ bao quanh tạo nên cấu trúc “đô thị trong thiên nhiên”, giúp Huế giữ được vẻ mềm mại, hài hòa và khác biệt so với nhiều đô thị khác.
Theo TS. Hải, các nỗ lực bảo tồn từ sau khi được UNESCO công nhận đã đem lại kết quả rõ rệt. Hàng loạt di tích quan trọng như Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, cung Diên Thọ, Điện Kiến Trung, cùng nhiều lăng vua như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… được trùng tu quy mô lớn, phục hồi diện mạo kinh đô xưa và cứu nguy các di tích xuống cấp. Thành tựu này có sự đóng góp lớn của hợp tác quốc tế: Nhật Bản hỗ trợ trùng tu Ngọ Môn và lăng Minh Mạng; Đức hỗ trợ phục hồi cung An Định và Điện Phụng Tiên, cùng sự tham gia của chuyên gia từ Hàn Quốc, Pháp, Ba Lan, Mỹ. Huế được nhìn nhận là hình mẫu hợp tác đa phương trong bảo tồn.
Cũng trong báo cáo, TS. Hải nêu rõ vai trò của khảo cổ học nhằm tránh “hóa thạch di sản”. Nhiều điểm khảo cổ như Thành Lồi, Hóa Châu, Liễu Cốc đã được khai quật, góp phần bổ khuyết tri thức lịch sử và hỗ trợ quy hoạch bảo tồn. Công tác phát huy giá trị di sản được đẩy mạnh, đặc biệt thông qua Festival Huế – sự kiện văn hóa quốc tế duy trì từ năm 2000. Du lịch di sản hiện chiếm hơn 80% sản phẩm du lịch của tỉnh với hệ thống bảo tàng tư nhân, không gian nghệ thuật và mô hình xã hội hóa ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, Huế phải đối mặt nhiều thách thức. Áp lực đô thị hóa làm gia tăng nhu cầu hạ tầng và nhà ở, kéo theo nguy cơ phá vỡ cảnh quan di sản. Nguồn lực ngân sách bảo tồn còn hạn chế, trong khi các cơ chế xã hội hóa chưa bền vững. Biến đổi khí hậu, đặc biệt bão lũ và ngập lụt, tác động mạnh đến di tích. Du lịch tăng trưởng nhanh có nguy cơ quá tải và thương mại hóa lễ hội. Theo TS. Hải, một đô thị di sản phải bảo đảm lợi ích và đời sống cư dân địa phương, không chỉ phục vụ du khách.
Trong định hướng phát triển, Huế hướng tới quy hoạch tích hợp, gắn di sản với thiên nhiên và cộng đồng. Công nghệ số như GIS, mô hình 3D và trí tuệ nhân tạo sẽ được ứng dụng vào quản lý, số hóa di sản và phát triển du lịch thông minh. Công nghiệp văn hóa – sáng tạo được xem là hướng đi mới, trong đó cộng đồng đóng vai trò trung tâm.
TS. Phan Thanh Hải khẳng định, Huế đang chứng minh bảo tồn là nền tảng của phát triển. Mô hình đô thị sinh thái – di sản – thông minh mà Huế theo đuổi có thể trở thành kinh nghiệm cho nhiều địa phương khác. Ông đề xuất phát triển cơ chế tài chính bền vững như Quỹ Di sản, đẩy mạnh hợp tác công – tư và khuyến khích xã hội hóa đi đôi quản lý hiệu quả.