Mỹ thực hiện một loạt chương trình hỗ trợ tại Biển Đông, huy động tất cả các công cụ chính sách mà các nước điều chỉnh các sự kiện trên biển.

>> Kỳ 1: Chính sách biển của Mỹ

Washington cũng cung cấp hỗ trợ song phương phù hợp cho các chính phủ trong khu vực. Chẳng hạn Philippines được lợi từ sự hỗ trợ chống khủng bố của Mỹ sau các cuộc tấn công ngày 9/11/2001, bao gồm các hỗ trợ đáng kể về quân sự và tình báo. Đầu năm 2002, Washington đã cam kết cử khoảng 1.300 binh lính và dành 93 triệu USD trợ giúp quân sự nhằm giúp Philippines đánh bại các nhóm khủng bố như Abu Sayyaf. Các chương trình hỗ trợ kinh tế, giáo dục và y tế cũng được tiến hành trên đảo Mindanao.

Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Mỹ dễ thấy nhất là sự chuyển giao trực tiếp máy móc vũ khí hạng nặng cho các chính phủ trong khu vực. Tháng 5/2011, Lực lựơng Bảo vệ Bờ biển Mỹ đã chuyển một tàu chiến lớp Hamilton cũ cho Philippines. Chiếc Hamilton dài 378m này, được đặt tên lại là BRP Gregorio del Pilar, sẽ trở thành tàu đô đốc của Hải quân Philippines, thay thế một tàu khu trục của Mỹ từ thời chiến tranh thế giới II. Manila đã đề nghị thêm ba tàu lớp Hamilton "về hưu", chủ yếu để tuần tra trên các vùng biển mà Philippines đòi chủ quyền tại Biển Đông. Và trong một chuyến thăm Philippines tháng 11/2011, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã hứa rằng Mỹ sẽ trao cho Philippines chiếc tàu thứ hai.

Các vụ chuyển giao này đáng chú ý vì bốn lý do. Đầu tiên, tàu lớp Hamilton là loại đã cũ. Nó từng tham gia Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Mỹ từ năm 1967 và đã đạt đến tuổi thọ cao nhất theo thiết kế. Thứ hai, một tàu chiến của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển được trang bị vũ khí hạng nhẹ hiện là niềm tự hào của Hải quân Philippines. Nhưng các tàu chiến này không có các vũ khí công nghệ cao như tên lửa chống hạm hay tên lửa đất đối không. Điều này cho thấy sự yếu thế của Philippines trên biển so với các nước Đông Nam Á và đặc biệt so với Trung Quốc. Thứ ba, Washington chuyển tàu chiến Hamilton thay vì tàu chiến nổi đã thôi sử dụng của Hải quân Mỹ được trang bị tốt hơn để chống lại các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông. Quyết định này cho thấy giới lãnh đạo Mỹ không muốn khiến Bắc Kinh tức giận tại vùng biển là "sân sau" của họ.


Thứ tư, việc chuyển giao tàu cho thấy Manila cũng như các chính phủ khác trong khu vực thiếu nguồn lực cần để thực thi pháp luật hay cạnh tranh công bằng với các nước láng giềng lớn hơn như Trung Quốc. Một phần, đây là do ngân sách quốc phòng hạn chế. Chính phủ Philippines được bầu năm 2010 đã cam kết tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng, lên mức 2,4 tỷ USD, đồng thời dự định tăng chi tiêu cho mua sắm lên 931 triệu USD trong các tài khóa 2011-2016. Nếu so sánh, chi phí để mua chỉ một chiếc tàu khu trục lớp Arleigh Burke của Hải quân Mỹ khiến chi tiêu trong tài khóa 2012 vượt quá 2 tỷ USD.

Kết quả là Hải quân Philippines "tụt hậu so với các lực lượng hải quân khác trong khu vực". Sự tụt hậu về khả năng này khiến Manila rơi vào tình thế bất lợi trong các tương tác trên biển với các nước láng giềng mạnh hơn, đặc biệt khi các thủy thủ Philippines chạm chán với các tàu dân sự mà Trung Quốc dùng để bảo vệ yêu sách lãnh thổ của mình. Sự không tương xứng này sẽ chỉ càng lớn hơn khi hải quân Trung Quốc lớn mạnh, tạo ra một hỗ trợ quân sự cho các nỗ lực thực thi pháp luật của họ. Cựu Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu khẳng định rằng "đằng sau các tàu tuần tra nhỏ này sẽ là một lực lượng hải quân biển xa".

Những bất cân bằng về năng lực nói trên là bằng chứng điển hình cho thấy sự tương tác giữa Trung Quốc với nhiều đối tác hiện nay và tương lai của Mỹ. Chẳng hạn Việt Nam đã cải thiện năng lực biển của mình, một phần để bảo vệ các yêu sách Biển Đông. Việt Nam đã đặt mua 6 tàu ngầm tấn công lớp Kilo chạy bằng động cơ điện-diesel từ Nga, trong khi mua máy bay tuần tra trên biển của Airbus từ Tây Ban Nha. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu Hà Nội có sở hữu đủ nguồn lực chính để nâng cấp lực lượng hải quân của mình hay không khi Trung Quốc tiến hành một chiến dịch hống hách và liên tục nhằm củng cố các yêu sách của họ bất chấp Việt Nam. Vì vậy, Hà Nội có thể sẽ không mua tàu công nghệ cao cũng như các tài sản khác của Mỹ. Mỹ sẽ chào hàng Việt Nam những loại thấp hơn, như tàu hoặc máy bay của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển. Nhưng chưa rõ giới lãnh đạo Mỹ có quyết định đối đầu với Bắc Kinh khi chuyển giao các món hàng có thể giúp chống lại các yêu sách của Trung Quốc hay không.

Như vậy, duy trì hợp tác biển tránh khỏi sự cạnh tranh chính sách thực dụng sẽ cho thấy nỗ lực của Mỹ ở Biển Đông. Có thể các sáng kiến vượt trội mang tính hệ thống nhất của quân đội Mỹ đối với các quốc gia ở Biển Đông là các cuộc tập trận chung thường niên mang tên Hợp tác và Huấn luyện trên biển Đông Nam Á (SEACAT), và chương trình Hợp tác Huấn luyện và Sẵn sàng tác chiến trên biển (CARAT).

Hiện đã bước sang tuổi thứ 9, SEACAT cung cấp cho 6 quốc gia Đông Nam Á các buổi huấn luyện chiến thuật chuyên biệt, kỹ thuật và thủ tục cấm chặn trên biển. Được khởi động bởi Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ năm 1995, các cuộc tập trận CARAT với sự kết hợp của các đơn vị thuộc Hải quân, Lính thủy đánh bộ, Bảo vệ Bờ biển và Bộ Chỉ huy quân sự biển của Mỹ dựa trên nền tảng chủ yếu là song phương với các đối tác như Philippines, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Brunei và Indonesia. Campuchia và Việt Nam là hai đối tác mới. CARAT cho phép các nước này hành động theo ý muốn, đồng thời thúc đẩy "khả năng phối hợp tác chiến" giữa các lực lượng của khu vực và của Mỹ nhằm bảo vệ lợi ích chung.

CARAT đòi hỏi một cam kết lớn và lâu dài của các nguồn lực Mỹ nhằm cải thiện các kỹ năng và khả năng vật chất của các lực lượng Đông Nam Á. Ví dụ, cuộc tập trận CARAT năm 2009 giữa Mỹ và Malaysia bao gồm các cuộc diễn tập bắn súng phòng không, chiến tranh dưới lòng biển, sơ tán người bị thương, lặn và cứu hộ, quản lý hậu cần, huấn luyện trong rừng và đổ bộ lưỡng cư. Tư lệnh Hạm đội 7 của Mỹ, Phó đô đốc John M.Bird tuyên bố sau cuộc tập trận này: "Sự ổn định toàn cầu gắn liền với các đối tác hợp tác trên biển". Ông cũng nói rằng Mỹ và các đối tác trong khu vực "đã chứng tỏ khả năng phối hợp với nhau và phát triển cách đối phó thống nhất" đối với các vấn đề liên quan đến trật tự có lợi trên biển và "các cuộc tập trận như CARAT là chìa khóa để duy trì các kỹ năng nhạy bén của chúng ta".

Ngoài các dự án liên kết giữa quân đội với quân đội như CARAT, một loạt các nỗ lực đa phương khác, trong đó liên quan đến cả các công cụ chính sách quân sự và phi quân sự, cũng được sử dụng để xây dựng các năng lực để các chính phủ Đông Nam Á kiểm soát lãnh thổ, vùng trời và vùng biển của mình, và phối hợp với các nước khác bảo vệ vùng biển chung. Sáng kiến PSI do Mỹ đứng đầu đã được khởi động tại Đông Nam Á.

Những nước tham gia thỏa thuận không ràng buộc này cam kết phối hợp cùng nhau cấm những hàng hóa bị nghi là liên quan đến vũ khí được chuyển giao giữa người mua và người bán. Họ cũng cam kết kiểm soát lãnh thổ, không gian và các vùng biển của mình chống lại hoạt động buôn lậu vũ khí. Để làm được vậy, các quốc gia tham gia giúp hạn chế sự phổ biến của các loạt vũ khí hạt nhân, sinh học, phóng xạ và hóa học, cũng như các hệ thống phân phối liên quan. Các cuộc diễn tập SEACAT đã huấn luyện các kỹ năng liên quan đến việc này.

Hơn 100 quốc gia tham gia PSI, trong đó có Campuchia, Philippines, Singapore, Australia, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tuy nhiên, các quốc gia chính ở Biển Đông như Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Thái Lan lại không tham gia. Sự ủng hộ rộng rãi hơn sẽ thu hẹp khoảng cách hành động trong sáng kiến này trong khi giúp Mỹ và các nước tham gia PSI tạo ra một tiêu chuẩn phản đối phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.

Một thỏa thuận đa phương khác, Sáng kiến An ninh Container (CSI), với sự phối hợp của các cơ quan Hải quan Mỹ và các nhân viên Bảo vệ biên giới tại "các cảng lớn". Các nhân viên này sử dụng máy dò công nghệ cao để soi các container hàng hóa sẽ được nhập vào các cảng của Mỹ. Việc phát hiện các container có chứa vũ khí hoặc các vật liệu liên quan đến vũ khí trước khi cập cảng Mỹ tạo điều kiện cho dòng hàng hóa được lưu thông nhanh trong khi thắt chặt an ninh trong lòng hệ thống vận tải biển.

CSI là một thỏa thuận đôi bên cùng có lợi, và phi chính trị, chính vì thế nó thu hút sự tham gia rộng rãi của các nước. Hiện CSI đang có hiệu lực tại 58 cảng biển trên thế giới, trong đó có các cảng ở Singapore, Malaysia, Thái Lan và cả Trung Quốc - nước có thói quen hoài nghi các sáng kiến do Mỹ đứng đầu. Sáng kiến này không ảnh hưởng tới thời gian di chuyển trên biển. Trong khi các lãnh đạo Trung Quốc nhìn chung than phiền rằng một nước khác sẽ sử dụng PSI như một cái cớ để quấy rầy các tàu treo cờ Trung Quốc, thì CSI không gặp phải vấn đề này - đây chính là khác biệt lớn trong thái độ của Trung Quốc đối với hai sáng kiến trên.

Châu Giang dịch theo The Middling Kingdom

Còn tiếp