Tăng cường chỉ đạo và hoàn thiện nền tảng thực thi

Tại Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Chương trình “Tăng cường bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm và cấp nước sạch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025” (Chương trình 925) được tổ chức tại Thành phố Cần Thơ, ngày 28/11/2025, Văn phòng Điều phối Nông thôn mới Trung ương đã có báo cáo tổng quan về chương trình. Theo đó, Chương trình 925 đã được triển khai bài bản, xuyên suốt và có chiều sâu từ Trung ương đến địa phương. 

Trên cơ sở Quyết định số 925/QĐ-TTg ngày 2/8/2022 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình tăng cường bảo vệ môi trường, an toàn thực phẩm và cấp nước sạch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, Ban Chỉ đạo Trung ương đã ban hành kế hoạch triển khai giai đoạn 2021–2025, xác định những giải pháp trọng tâm về truyền thông, tập huấn, hoàn thiện chính sách và nhân rộng mô hình bảo vệ môi trường nông thôn.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũ (NN&PTNT) đã tổ chức hội nghị trực tiếp và trực tuyến với sự tham gia của 63 tỉnh, thành phố để quán triệt định hướng thực hiện Chương trình. Cùng với đó là hệ thống văn bản chỉ đạo quan trọng, bao gồm Công văn 8050/BNN-VPĐP (29/12/2022) hướng dẫn rà soát chính sách, nâng cao nhận thức cộng đồng, xây dựng mô hình thí điểm và tổ chức giám sát theo yêu cầu của Chương trình 925. Bộ cũng liên tục ban hành các văn bản đôn đốc tiến độ, tháo gỡ vướng mắc cho địa phương, đảm bảo thực thi Chương trình đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ.

Các bộ, ngành khác như Bộ Tài nguyên & Môi trường cũ (TN&MT), Bộ Y tế, Bộ Xây dựng… đã phối hợp ban hành hướng dẫn chuyên môn, từ tiêu chí môi trường, kỹ thuật nước sạch, mô hình xử lý nước thải sinh hoạt quy mô hộ gia đình, đến xây dựng chợ an toàn thực phẩm và cảnh quan nông thôn. Một số văn bản quan trọng – như hướng dẫn thu gom và xử lý nước thải sinh hoạt qua Công văn 1252/VPĐP-NV&MT năm 2023 – trở thành tài liệu tham khảo chủ lực cho địa phương trong xây dựng mô hình phù hợp điều kiện thực tế.

Ở cấp địa phương, 60/63 tỉnh, thành phố (cũ) đã ban hành Đề án triển khai Chương trình 925. Việc lồng ghép nội dung Chương trình vào các kế hoạch, chương trình bảo vệ môi trường đang có giúp địa phương chủ động hơn trong bố trí nguồn lực và tổ chức thực hiện.

W-2. Chính luận Nỗ lực bền bỉ xây dựng nông thôn xanh sạch bền vững.jpg
Nhiều mô hình bảo vệ môi trường nông thôn được triển khai tại địa phương đem lại hiệu quả cao.

Công tác truyền thông và tập huấn cũng được đẩy mạnh. Nhiều chiến dịch hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới, Ngày Đa dạng sinh học… lan tỏa sâu rộng. Hàng loạt lớp tập huấn được tổ chức bởi Cục Kiểm soát ô nhiễm môi trường, Cục Thủy lợi, Viện Môi trường Nông nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội… góp phần nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở và người dân. Nhiều tài liệu hướng dẫn đã hoàn thiện, được chuyển giao cho địa phương để áp dụng.

Bên cạnh đó, công tác giám sát và khảo sát thực địa được tăng cường, với nhiều đoàn công tác của Bộ NN&PTNT và Bộ TN&MT làm việc tại các tỉnh Vĩnh Phúc cũ, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Quảng Nam cũ, Bến Tre cũ, Long An, Nghệ An, Sơn La… Qua đó, kịp thời hướng dẫn chuyên môn, nhắc nhở tiến độ và tháo gỡ các vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai Chương trình.

Chuyển biến mạnh mẽ 

Tính đến cuối năm 2023, cả nước có 18.109 công trình cấp nước tập trung, cung cấp nước sạch đạt quy chuẩn cho gần 9,4 triệu hộ gia đình; 74,2% hộ nông thôn sử dụng nước đạt quy chuẩn – trong đó 55,1% dùng nước từ công trình cấp nước tập trung. Đến giữa năm 2025, có 59% hộ nông thôn sử dụng nước sạch đạt chuẩn. Tuy nhiên, vẫn còn 14,8% công trình cấp nước không hoạt động và 27% hoạt động kém bền vững, chủ yếu là các công trình quy mô nhỏ do cộng đồng quản lý. Nhiều tỉnh đang thực hiện thủ tục thanh lý các công trình không còn hiệu quả.

Bộ NN&PTNT cũ đã phê duyệt 8 mô hình thí điểm cấp nước sạch tại các vùng hạn hán, vùng xa, biên giới; trong đó 4 mô hình đã hoàn thành và chuẩn bị đưa vào sử dụng. Các mô hình trữ nước quy mô cụm hộ do Văn phòng Điều phối Nông thôn mới Trung ương triển khai tại Cao Bằng và Thanh Hóa đã được nghiệm thu và bàn giao cho địa phương.

Ở lĩnh vực nước thải sinh hoạt, 3.498 xã và 22.960 thôn đã có hệ thống thoát nước thải (tương ứng 42,16% xã và 34,67% thôn). Tuy nhiên, đa phần nước thải vẫn xả trực tiếp ra môi trường do thiếu hệ thống thu gom và xử lý đồng bộ. Các mô hình phân tán quy mô hộ gia đình – điển hình tại Hà Tĩnh, Thái Nguyên, An Giang – chứng minh hiệu quả cao: dễ vận hành, chi phí thấp, nước đầu ra có thể tái sử dụng. Riêng Hà Tĩnh đã nhân rộng lên gần 1.600 mô hình ở 45 xã.

Trong số 10 mô hình thí điểm nước thải được Bộ phê duyệt, 4 mô hình tại Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế cũ, Sóc Trăng cũ và Bạc Liêu cũ đã hoàn thành; hai mô hình tại Hòa Bình và Yên Bái cũ cũng được xây dựng thành công, góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân.

Báo cáo của Chương trình cũng chỉ ra, chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) nông thôn phát sinh khoảng 32.153,7 tấn/ngày. Tỷ lệ thu gom tăng từ 71% (2022) lên 79,9% (2024), nhiều địa phương đạt trên 90%, nổi bật là Đồng Nai đạt 100% và có tỷ lệ chôn lấp chỉ 13,5%. Cả nước có 1.456 cơ sở xử lý CTRSH; trong đó 491 cơ sở chôn lấp hợp vệ sinh, 7 cơ sở đốt phát điện và 30 cơ sở sản xuất phân hữu cơ từ rác.

Các mô hình phân loại tại nguồn lan tỏa mạnh mẽ: Ngôi nhà xanh ở Bình Thuận cũ, mô hình xử lý rác hữu cơ ở Bắc Ninh, Hà Tĩnh, Long An cũ, Trà Vinh cũ, Sơn La… góp phần thay đổi nhận thức cộng đồng, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Dù vậy, còn khoảng 20% CTRSH chưa được thu gom theo quy định, và chất thải nguy hại hộ gia đình chưa được quản lý hiệu quả.

Ở lĩnh vực chất thải nông nghiệp, năm 2023 phụ phẩm trồng trọt phát sinh hơn 94 triệu tấn; chất thải chăn nuôi 68,92 triệu tấn; 70% chất thải trồng trọt và gần 50% chất thải chăn nuôi chưa được xử lý triệt để. Tuy nhiên, nhiều mô hình xử lý tại nguồn đã mở ra hướng phát triển bền vững: hầm biogas, đệm lót sinh học, ủ compost, công nghệ tách ép phân, sử dụng chế phẩm sinh học, nuôi ruồi lính đen… Hà Tĩnh đã xây dựng hơn 13.600 bể biogas; Thái Nguyên hướng dẫn áp dụng nhiều công nghệ xử lý; Ninh Bình phát triển 6 mô hình nông nghiệp hữu cơ; Lâm Đồng có 45,5% trang trại được đầu tư xử lý chất thải theo quy định.

Công tác thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) có bước tiến nổi bật: 4.201 xã có điểm thu gom (50,63%), 97,14% xã có thu gom thực hiện xử lý theo quy định. Chương trình “Cùng nông dân bảo vệ môi trường” được triển khai đồng loạt giúp thay đổi thói quen bỏ vỏ, chai lọ ngoài đồng ruộng. Giai đoạn 2020–2024, cả nước thu gom được 3.876.428 kg bao bì thuốc bảo vệ thực vật; trong đó 2.326.097 kg được xử lý đúng quy định.

Làng nghề và cảnh quan nông thôn cũng nỗ lực giảm ô nhiễm, nâng cao chất lượng sống. Nhiều mô hình xử lý chất thải làng nghề đã được triển khai, như tại Mỹ Lồng (Bến Tre cũ), Tân Phú Đông và An Hiệp (Đồng Tháp). Một số làng nghề ứng dụng công nghệ sạch hơn như gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), bánh đa Kế (Bắc Giang cũ), mây tre đan Tăng Tiến (Bắc Giang cũ)… giúp giảm thiểu phát thải. Trong 47 làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng, 31 làng nghề đã triển khai biện pháp khắc phục; nhiều làng nghề thu hẹp quy mô hoặc chuyển đổi ngành nghề để giảm ô nhiễm.

Cảnh quan nông thôn được cải thiện rõ rệt: người dân chủ động cải tạo vườn, trồng cây xanh, nâng cấp ngõ xóm, xử lý rác thải. Không gian xanh – sạch – đẹp dần trở thành nét đặc trưng của nhiều địa phương, gắn phát triển cảnh quan với văn hóa và du lịch cộng đồng.

Báo cáo tổng kết nhấn mạnh: Dù đạt nhiều kết quả tích cực, công tác bảo vệ môi trường nông thôn vẫn đối mặt thách thức lớn – từ hạn chế hạ tầng nước thải, công trình cấp nước kém bền vững, chất thải khó kiểm soát đến ô nhiễm làng nghề kéo dài. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, ưu tiên đầu tư trọng điểm, tăng cường xã hội hóa nguồn lực và nhân rộng các mô hình có hiệu quả thực tiễn.

Sau 5 năm triển khai, Chương trình 925 đã tạo nền tảng để mỗi người dân, mỗi cộng đồng nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm bảo vệ môi trường. Đây sẽ là động lực quan trọng cho giai đoạn tiếp theo, hướng tới mục tiêu xây dựng nông thôn Việt Nam xanh – sạch – an toàn, với chất lượng sống ngày càng nâng cao.