Tái cấu trúc theo hướng nuôi biển quy mô lớn, sinh thái

Theo Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ NN&MT), năm 2024 Việt Nam đạt sản lượng 9,6 triệu tấn thủy sản, xuất khẩu 10,07 tỷ USD – đứng thứ 4 toàn cầu. Tuy nhiên, sản lượng khai thác đang giảm 14%, tài nguyên suy kiệt nhanh.

Tại hội thảo Thể chế, quy hoạch - Cơ hội cho phát triển kinh tế biển xanh do Bộ NN&MT phối hợp với UBND tỉnh Quảng Bình (trước khi sát nhập chính quyền 2 cấp) tổ chức, ông Lê Trần Nguyên Hùng, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho biết, Việt Nam hiện có 27 khu bảo tồn biển cấp quốc gia và 149 khu vực khoanh vùng khai thác có kiểm soát. Diện tích được bảo tồn mới chỉ chiếm 0,46% diện tích biển cả nước – thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu 3% theo Chiến lược quốc gia.

Một số địa phương mới chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế, du lịch, chưa quan tâm đến công tác bảo tồn biển, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ các hệ sinh thái biển.

W-kinh te biển 1.jpg
Một góc kinh tế biển ở tỉnh Quảng Bình trước khi sát nhập chính quyền 2 cấp.

Trong bối cảnh đó, việc tái cấu trúc chiến lược ngành thủy sản theo hướng nuôi biển quy mô lớn, nuôi sinh thái, phát triển nghề cá có trách nhiệm, đang trở thành yêu cầu sống còn.

Nhiều bước chuyển quan trọng liên quan đến kinh tế biển

Với đường bờ biển dài, điều kiện tự nhiên thuận lợi và nguồn lợi thủy sản phong phú, Việt Nam sở hữu lợi thế lớn về nghề nuôi biển. Thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm tháo gỡ những nút thắt, phát huy tối đa tiềm năng, hướng tới mục tiêu phát triển nghề nuôi biển hiện đại, bền vững.

Năm 2025 là thời điểm bản lề, đánh dấu nhiều bước chuyển quan trọng về thể chế và quy hoạch liên quan đến kinh tế biển. Nghị định số 65/2025/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực từ ngày 2/5/2025 được nhiều chuyên gia kinh tế kỳ vọng sẽ mở lối cho những động lực phát triển kinh tế biển bền vững và lâu dài.

Định hướng phát triển các ngành kinh tế biển của Việt Nam cần theo hướng tăng diện tích các khu bảo tồn, bảo vệ biển và ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích biển quốc gia. Chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển. Bảo vệ, nâng cao giá trị dịch vụ hệ sinh thái, hướng tới nền kinh tế biển xanh. 

Phát triển nuôi trồng hải sản trên biển theo hướng xanh, công nghệ mới, tiên tiến gắn với bảo vệ môi trường. Chuyển hướng nghề cá từ gần bờ, ven đảo sang nuôi biển gắn với bảo vệ, tái tạo nguồn lợi hải sản. Đẩy mạnh khai thác xa bờ phù hợp với từng vùng biển và khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển. 

Đẩy mạnh phát triển các loại hình du lịch đặc thù phù hợp với điều kiện địa lý, tài nguyên du lịch từng vùng, khu vực, địa phương. Kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, đặc biệt đối với rác thải nhựa.

Thúc đẩy và khuyến khích đầu tư xây dựng, khai thác điện gió ngoài khơi, công nghiệp hydrogen, điện mặt trời và các dạng năng lượng tái tạo khác. Phát triển các ngành kinh tế biển mới, nhiều tiềm năng như dược liệu biển, y học biển, hóa học biển, các vật liệu mới.

Ưu tiên phát triển hệ thống cảng biển, logistics, tối ưu hóa việc vận chuyển hàng hóa, tạo ra kết nối hiệu quả với thị trường nội địa và quốc tế.  

Các chuyên gia đánh giá, năm 2025 là dấu mốc chuyển mình mạnh mẽ về thể chế và quy hoạch để phát triển kinh tế biển. Sự hợp tác đa phương, liên ngành giữa Trung ương và địa phương, khu vực tư nhân và các tổ chức quốc tế được tăng cường sẽ là yếu tố quyết định để xây dựng một nền kinh tế biển xanh, hiện đại, có khả năng chống chịu trước biến đổi khí hậu. Có thêm điều kiện ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số vào phát triển kinh tế biển, yếu tố được xem là “chìa khóa vàng” giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách với các quốc gia có nền kinh tế biển phát triển.