Nét độc đáo của một “đóa sen” trong kiến trúc Việt

Chùa Một Cột có tên ban đầu là Liên Hoa Đài được khởi công xây dựng vào mùa Đông tháng 10 năm 1049 dưới thời vua Lý Thái Tông sau lời khuyên của Nhà sư Thiền Tuệ về giấc mộng Phật bà Quan Thế âm Bồ Tát ngự trên tòa sen.

Để lên được Liên Hoa Đài, du khách phải bước qua 13 bậc thang với chiều rộng khoảng 1.4m. 

Chính lối  kiến trúc độc đáo của mình nên ngày nay, cùng với nhu cầu về chiêm bái, tâm linh, chùa Một Cột đã trở thành điểm du lịch quan trọng của Thủ đô đối với nhiều khách trong và ngoài nước.

W-Chùa Một Cột 1.jpg
Chùa Một Cột nằm trong quần thể chùa Diên Hựu ở phía tây Hoàng thành Thăng Long xưa. 
W-Chùa Một Cột 2.jpg
Tượng Phật bà Quan Âm trước khu tam bảo thuộc quần thể chùa Diên Hựu.
W-Chùa Một Cột 8.jpg
Điện Tam bảo trong chùa Diên Hựu với các tượng đồng, gỗ sơn son thiếp vàng rực rỡ.
W-Chùa Một Cột 3.jpg
Năm 1955, chùa Một Cột được tái dựng theo bản thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng dựa trên kiến trúc từ thời Nguyễn, tạo sự liên tưởng về một đóa sen vươn thẳng trên mặt nước.

Cột đá trụ giữa cao khoảng 4m, đường kính 1,2m, là hai khối đá chồng lên nhau, bên trên đỡ hệ thống vì kèo gỗ lim cong mềm mại – như chính cuống sen nâng đỡ đài hoa.

Lầu gỗ hình vuông, mỗi cạnh 3m, đặt tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay mạ vàng trên đài sen chạm khắc tinh xảo. 

W-Chùa Một Cột 4.jpg
Liên Hoa đài đặt trên một cột gỗ lim trên mặt đất, thể hiện hình tượng bông sen nở trên cuống sen. Năm 1954, chùa bị quân đội Pháp phá hủy, cột gỗ lim đã được thay bằng cột bê tông.
W-Chùa Một Cột 5.jpg
Tâm điểm của chùa là tượng Phật bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay mạ vàng đặt trên một bông sen bằng gỗ được chạm khắc tinh xảo, sơn son thếp vàng. 

Mái chùa cong vút, lợp ngói cổ, đắp nổi hình “lưỡng long chầu nguyệt” – một trong những phong cách trang trí quen thuộc thời Lý – Trần.

W-Chùa Một Cột 6.jpg
Mái chùa lợp ngói cổ, được trang trí “lưỡng long chầu nguyệt" (đôi rồng chầu mặt trăng) - hình ảnh đặc trưng trong kiến trúc cổ xưa.
W-Chùa Một Cột 7.jpg
Mái đao đặc trưng của kiến trúc đình, chùa ở Việt Nam.

Nghiên cứu một số tài liệu lịch sử thì chùa được trùng tu, sửa chữa nhiều lần, qua các triều đại của nhà Trần, hậu Lê và Nguyễn.

Năm 1954, chùa bị phá hủy trong chiến tranh. Năm 1955, Nhà nước phục dựng lại song vẫn giữ được cấu trúc của đài Liên Hoa, với kết cấu hình vuông, lợp ngói ta, mỗi chiều dài 3m, 4 mái cong, trên có lưỡng long chầu nguyệt. Trong đài tôn trí tượng Bồ tát Quán Thế Âm.

Năm 1962, chùa được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia, và năm 2006 được Tổ chức Kỷ lục Việt Nam xác lập là “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam”. 

Năm 2012, chùa tiếp tục được Tổ chức Kỷ lục châu Á công nhận là “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất châu Á” – một minh chứng thuyết phục cho giá trị kiến trúc độc nhất vô nhị.

Ý nghĩa tâm linh và giá trị nhân văn trường tồn

Đối với người Việt, chùa Một Cột không chỉ là một di tích để tham quan. Hình ảnh đóa sen vươn lên giữa mặt nước mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc: sự tinh khiết, thoát tục, đại diện cho trí tuệ và lòng từ bi trong giáo lý Phật giáo.

W-Chùa Một Cột 10.jpg
Trong khuôn viên chùa Một Cột có một cây bồ đề do Tổng thống Ấn Độ tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 2/1958. 

Người dân Hà Nội và du khách thập phương tìm đến chùa cầu bình an, may mắn, đặc biệt là các cặp vợ chồng hiếm muộn (bởi từng có truyền thuyết gắn với giấc mơ Phật Bà ban con cho vua Lý Thái Tông). 

W-Chùa Một Cột 9.jpg
Ngôi chùa luôn là biểu tượng của sự thanh tịnh, bình yên trong tâm thức người Việt.

Chùa Một Cột cùng với Khuê Văn Các được xem là hai biểu tượng tiêu biểu nhất của Thăng Long ngàn năm văn hiến. Từ kiến trúc, lịch sử đến truyền thuyết, công trình là sự kết tụ tinh hoa mỹ thuật Lý, dấu ấn Phật giáo thời vàng son và bản sắc tâm linh Việt.

Hơn cả một điểm du lịch, Chùa Một Cột là một niềm tự hào của người Hà Nội và của cả dân tộc. Dẫu trải qua chiến tranh, dẫu không còn nguyên vẹn như thuở ban đầu, nhưng ngôi chùa này vẫn luôn là biểu tượng của sự thanh tịnh, bình yên trong tâm thức người Việt.